X

Soạn văn 9 Kết nối tri thức

Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 9 trang 59 - ngắn nhất Kết nối tri thức


Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 59, 60 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 9 Kết nối tri thức giúp học sinh soạn văn 9 dễ dàng hơn.

Soạn bài Củng cố, mở rộng lớp 9 trang 59 - Kết nối tri thức

Câu 1 (trang 59 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Những nỗi niềm xúc cảm của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm) và khách tha hương (Tiếng đàn mưa) có điểm chung nào không? Vì sao?

Trả lời:

- Những nỗi niềm cảm xúc của người chinh phụ và khách tha hương có điểm chung. Cụ thể là:

+ Nỗi niềm bồi hồi, nhớ nhung da diết: Người chinh phụ nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi chiến trường; còn khách tha hương nhớ quê hương đến mức nước mắt tuôn rơi như mưa.

+ Niềm mong ngóng, chờ đợi cháy bỏng nhưng vô vọng: Người chinh phụ mong ngóng, đợi chồng về từng ngày, từng tháng mà mãi không thấy chồng đâu; khách tha hương bồi hồi, mong muốn quay trở lại quê hương nhưng điều đó thật khó xảy ra.

+ Tự đau cho bản thân mình: Người chinh phụ thấy tự sầu não, đau buồn cho kiếp cô đơn nơi “buồng cũ chiếu chăn”; khách tha hương tự buồn đau, tự thương bản thân khi phải xa quê hương.

Câu 2 (trang 59 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Điều gì khiến thể thơ song thất lục bát có thế mạnh khi thể hiện những nỗi niềm, xúc cảm, những khát vọng riêng tư của con người?

Trả lời:

- Thể thơ song thất lục bát có thế mạnh khi thể hiện những nỗi niềm, xúc cảm, những khát vọng riêng tư của con người bởi:

+ Thể thơ song thất lục bát có khả năng truyền cảm mạnh mẽ mà sâu lắng. Chính điều này khiến các nhà thơ ưu tiên sử dụng thể thơ này để truyền tải nỗi niềm của mình.

+ Đây là thể thơ giàu nhạc tính, xuất hiện trong nhiều thể loại văn học (đặc biệt xuất hiện nhiều trong ngâm khúc). Điều này giúp các tác giả dễ dàng thể hiện cảm xúc của mình đến nhiều đối tượng.

+ Bản chất của thể thơ song thất lục bát cũng mang đậm tính trữ tình, giàu biểu cảm, mang đậm cái hồn của người Việt.

Câu 3 (trang 60 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Tìm đọc một tác phẩm thơ song thất lục bát viết về người phụ nữ. So sánh hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm đó với hình tượng người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm?

Trả lời:

- Tác phẩm thơ song thất lục bát có nội dung đề cập tới thân phận người phụ nữ: tác phẩm Thân phận đàn bà của Ngọc Chi

- Thân phận người phụ nữ trong bài thơ Thân phận đàn bà và số phận người phụ nữ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm đều có cuộc đời ai oán, khổ đau, long đong. Nếu như người chinh phụ khổ đau vì xa chồng, đau đớn cho thân phận mình, thì người phụ nữ trong Thân phận đàn bà lại khổ vì thân phận long đong, tương lai không xác định, đành phải cam chịu tủi nhục cả một đời.

Câu 4 (trang 60 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Chọn phân tích một tác phẩm thơ song thất lục bát mà em yêu thích.

Trả lời:

Trong nền thơ văn Việt Nam đã in dấu hơn một nghìn năm lịch sử của dân tộc, nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đóng góp một phần vẻ vang trong đó. Những bài thơ của ông mang những tình cảm chân thực đẹp đẽ của người Việt Nam, được diễn đạt bằng ngôn ngữ Việt Nam gần gũi và giản dị. Trong số các bài thơ ấy tiêu biểu là bài “Khóc Dương Khuê”.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Nguyễn, tuy nhiên sau năm 1884, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến cáo quan về làng nhưng Dương Khuê thì không có cái chí hướng đó, ông tiếp tục làm quan cho triều đình bấy giờ là tay sai cho thực dân, cho tới lúc ông qua đời ở tuổi 64. Cái chết đột ngột của Dương Khuê là một đau của Nguyễn Khuyến. Chẳng màng đến những chuyện khác, lúc đó Nguyễn Khuyến chỉ nghĩ rằng mình đã mất đi một người bạn thân, một tình cảm quý già không có gì có thể thay thế được. Tự ông hiểu được tình bạn ấy đến chính ông cũng không đo lường hết được chiều sâu, và rồi ông kêu lên những tiếng thảng thốt:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”

Chẳng còn sự trau chuốt văn chương chữ nghĩa, câu thơ chỉ còn là nỗi đau, một nỗi đau chân thành và trọn vẹn. Tiếng “thôi” nghe dân giã mà tự nhiên làm sao, bộc phát từ chính sự đau đớn trong cõi lòng tác giả, trong hoàn cảnh xã hội mà người ta luôn đề cao sự “cao nhã” trong văn chương thì ta thấy Nguyễn Khuyến đã coi trọng sự chân thực đời thường đến mức nào. Tuy là nói đến cái chết nhưng ông lại không dám nói hẳn từ “chết”, thay vào đó là “thôi đã…thôi rồi”, vậy là coi như hết, hết thật rồi, ông đã mất đi người bạn thân mãi mãi. Kẻ quyền quý có đánh rơi viên ngọc quý độc nhất vô nhị cũng chỉ kêu đến vậy mà thôi, nếu như không đau nỗi đau thật làm sao có thể khóc tiếng khóc thật đến thế. Chỉ có điều nỗi đau ấy của Nguyễn Khuyến không thể thét lên, ông khóc với chính mình, tự mình khóc mình nghe, tiếng khóc đi vào lòng chứ chẳng thấu đến ai. Lúc này ông muốn ngồi một mình, ngồi với người bạn đã mất để cùng nhớ lại những kỉ niệm đã có từ những ngày đã rất xa xôi:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước…
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời.”

Tình bạn ấy được gắn bó từ khi hai người cùng đi thi Hương và đỗ cùng nhau, hai người vốn khác quê, xa lạ, chẳng quen biết gì nhưng cứ như duyên trời định sẵn, họ cứ thế gắn bó cùng nhau. Đọc câu từ của Nguyễn Khuyến ta cảm thấy thật bình dị mà gần gũi, thân mật “sớm hôm”, “tôi bác”, “cùng nhau”, chan chứa tình cảm gắn bó, sự “kính yêu từ trước đến sau”.

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách…
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.”

Đôi bạn tâm đầu ý hợp đã từng trải qua những ngày tháng vui vẻ, thú vị, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui của kẻ cao nhân mặc khách. Tâm hồn nhà thơ như đang rung động trước những kỉ niệm, đang sống lại vói những cảm giác “từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn tiếng hát “ả đào”. Là những người bạn đến với nhau như duyên số, thân vì lòng mến mộ nhau, nên tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê như là chỗ tri âm tri kỉ, “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp…Biết bao đông bích, điển phần trước sau.” Chỉ nhấp chén rượu để thưởng thức vị đậm và mùi thơm, vừa ngẫm nghĩ để cho bầu thơ thêm lai láng. Cùng phụng sự dưới một triều đại, đôi bạn thân đã cùng chi sẻ nỗi đau mất nước, ông cũng cảm thấy mình bất lực, cam chịu nặng nề. Không chỉ thương cho người bạn đã ra đi mà đây còn là sự thương mình, thương mình đã mất đi một người tri kỉ. Nguyễn Khuyến đã mang trong mình cả nỗi đau mất tri kỉ, cả nỗi đau thời thế:

“Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đã mải lên tiên.”

Sự ra đi mãi mãi của người bạn tri kỉ là sự mất mát quá lớn đố với ông, sự thiếu vắng lẻ loi trong cuộc đời.

Bài thơ Khóc Dương Khuê mang một nỗi niềm tiếc nuối sâu sắc về một tình bạn tri kỉ, góp phần khẳng định về tình cảm giữa những con người với nhau. Bài thơ đã để lại cái nhìn cao đẹp về tình bạn cũng như nhân cách cao đẹp của Nguyễn Khuyến.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 9 Kết nối tri thức ngắn nhất, hay khác: